Nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ nhờ các mô hình hỗ trợ sinh kế cho phụ nữ dân tộc thiểu số

Hỗ trợ phát triển sinh kế do phụ nữ làm chủ Góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, “Nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ ở Việt Nam” (AWEEV) là một dự án hỗ trợ phát triển sinh kế do phụ nữ làm chủ. Dự

Hỗ trợ phát triển sinh kế do phụ nữ làm chủ

Góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021-2030, “Nâng cao quyền năng kinh tế của phụ nữ ở Việt Nam” (AWEEV) là một dự án hỗ trợ phát triển sinh kế do phụ nữ làm chủ. Dự án do chính phủ Canada hỗ trợ thông qua Tổ chức CARE tại Việt Nam, nhằm nâng cao phúc lợi kinh tế cho phụ nữ dân tộc thiểu số ở Việt Nam.

Dự án đã và đang hỗ trợ cho phụ nữ dân tộc thiểu số phát triển sinh kế, nhằm thúc đẩy quyền kinh tế của phụ nữ và đưa ra các giải pháp giảm bớt gánh nặng chăm sóc làm việc nhà không được trả lương.

Mô hình hỗ trợ sinh kế cho phụ nữ dân tộc thiểu số giúp chị em có việc làm, tăng thu nhập cho gia đình

Mô hình hỗ trợ sinh kế cho phụ nữ dân tộc thiểu số giúp chị em có việc làm, tăng thu nhập cho gia đình

Dự án hướng tới hỗ trợ trực tiếp cho hơn 2.600 phụ nữ và nam giới dân tộc thiểu số  ở 12 xã thuộc 3 huyện Quang Bình, Tam Đường và Sìn Hồ của tỉnh Hà Giang và Lai Châu.

Dự án được thực hiện trong 4 năm, tại 3 xã của tỉnh Lai Châu và 6 xã của tỉnh Hà Giang, với nguồn kinh phí gần 4,6 triệu đô-la Canada, triển khai từ tháng 9/2021. Đây cũng là dự án hỗ trợ trực tiếp Chương trình mục tiêu quốc gia về phát triển kinh tế – xã hội ở vùng miền núi và dân tộc thiểu số giai đoạn 2021 – 2030; trực tiếp góp phần thực hiện Chiến lược quốc gia về bình đẳng giới giai đoạn 2021 – 2030.

Dự án AWEEV lấy phụ nữ làm trung tâm, xây dựng các mô hình kinh tế do chính chị em thảo luận, quyết định và lựa chọn đầu tư; phù hợp với điều kiện của từng địa bàn. Tính đến nay, dự án đã thành lập được 35 nhóm phát triển sinh kế với hơn 900 thành viên, hơn 90% là phụ nữ. 

Tới nay, có 706 nam giới và phụ nữ dân tộc thiểu số nâng cao năng lực về đa dạng hóa thu nhập thông qua việc tham gia vào 35 nhóm sinh kế ứng dụng các biện pháp canh tác, chăn nuôi có tính đến yếu tố môi trường và thích ứng với khí hậu. 7 mô hình sản xuất, kinh doanh do phụ nữ làm chủ đã được hỗ trợ vốn và kỹ thuật để phát triển. Có 466 nam giới và phụ nữ dân tộc thiểu số được cải thiện kỹ thuật trồng chè theo chứng nhận của EU và Đài Loan.

Các mô hình sinh kế thân thiện với môi trường do phụ nữ làm chủ

Chị Hủng Thị Dạng - dân tộc Pà Thẻn đã thành công trong việc phát triển kinh tế từ cây chè quê hương

Chị Hủng Thị Dạng – dân tộc Pà Thẻn đã thành công trong việc phát triển kinh tế từ cây chè quê hương

Nâng cao giá trị kinh tế từ cây chè quê hương

Câu chuyện của chị Hủng Thị Dạng – dân tộc Pà Thẻn (thôn Thượng Bình, xã Yên Thành, huyện Quang Bình, tỉnh Hà Giang) là một ví dụ điển hình về sự nỗ lực vươn lên nắm vị thế làm chủ kinh tế. Thôn Thượng Bình là một trong những vùng trồng chè nổi tiếng ở Quang Bình. Nhận thấy cây chè của quê hương mình có rất nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế. Những búp chè trồng trên núi cao không chỉ sạch mà còn có hương vị đặc trưng riêng và tốt cho sức khỏe. Vì vậy, chị Dạng luôn nung nấu cải thiện chất lượng và thu nhập của người trồng chè.

“Tôi tin rằng bằng cách nâng cao chất lượng búp chè, tạo ra giá trị cho chè bằng chế biến chè khô, chúng tôi có thể cải thiện mức sống của những người trồng chè, đặc biệt là phụ nữ dân tộc Pà Thẻn vì họ là lao động chính trong chuỗi giá trị chè”, chị Hủng Thị Dạng chia sẻ.

Xưởng chè của chị Dạng đã tạo việc làm cho nhiều chị em trong vùng

Xưởng chè của chị Dạng đã tạo việc làm cho nhiều chị em trong vùng

Chị Dạng đã nghĩ tới việc mở xưởng chế biến chè thành phẩm. Chị tin rằng bằng cách nâng cao chất lượng búp chè, tạo ra giá trị gia tăng cho chè thông qua việc chế biến chè khô, chúng tôi có thể giúp cải thiện mức sống của người trồng chè, đặc biệt là phụ nữ vì họ là lao động chính trong chuỗi giá trị chè”.

Đầu năm 2023, dự án AWEEV (dự án hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số nâng cao vị thế kinh tế do chính phủ Canada hỗ trợ thông qua CARE tại Việt Nam) công bố hỗ trợ cho phụ nữ khởi nghiệp, đã mang đến cơ hội cho chị Hủng Thị Dạng. Dự án AWEEV đã hỗ trợ cho mô hình của chị Dạng 1 máy xao chè, 1 máy vò chè, máy phát điện, máy hút chân không… phục vụ các công đoạn sản xuất, đóng bao bì sản phẩm.

Đến tháng 9/2023, chị Dạng đã hoàn thiện nhà xưởng, bắt đầu khởi nghiệp và thuê bà con đến lao động, tạo việc làm tại chỗ. Đến nay, xưởng đã huy động số động chị em phụ nữ vào vụ thu hoạch, sản xuất.

Dự án AWEEV đã hỗ trợ cho mô hình của chị Dạng 1 máy xao chè, 1 máy vò chè, máy phát điện, máy hút chân không..

Dự án AWEEV đã hỗ trợ cho mô hình của chị Dạng 1 máy xao chè, 1 máy vò chè, máy phát điện, máy hút chân không..

Người phụ nữ dân tộc thiểu số này cho biết, trước đây, chị chỉ biết làm chè theo cách truyền thống. Sau khi được hỗ trợ, chị đã học hỏi và thành lập được xưởng sản xuất chè. “Chỉ 3 tháng sau khi hoàn thiện nhà xưởng và đào tạo kỹ thuật, tôi đã sản xuất và bán một mẻ chè khô chất lượng tốt, với giá cao hơn trước tới 15%. Tôi tin rằng bằng cách nâng cao chất lượng búp chè, tạo ra giá trị gia tăng cho chè thông qua việc chế biến chè khô, chúng tôi có thể giúp cải thiện mức sống của người trồng chè, đặc biệt là phụ nữ vì họ là lao động chính trong chuỗi giá trị chè”, Dạng cho hay.

Hiện nay, xưởng sản xuất chè của chị Hủng Thị Dạng đã sản xuất ổn định, góp phần cải thiện, nâng cao thu nhập cho nhiều gia đình, với mức 7 – 8 triệu đồng/tháng.

Chị tâm sự thêm, để xưởng chè được như ngày hôm nay là chặng đường không dễ dàng. Những ngày đầu, vận động, thuyết phục chị em phụ nữ dân tộc Pà Thẻn trong thôn tham gia làm cùng rất khó khăn vì chị em đa phần không có điều kiện kinh tế. Một số người có điều kiện thì vẫn e dè, ngần ngại, không dám bỏ tiền ra để góp vốn. Quyết tâm thuyết phục chị em cùng tham gia phát triển kinh tế, chị Dạng cứ vậy âm thầm, nỗ lực cố gắng.

Để thuyết phục chị em trong thôn cùng tham gia, chị Dạng mời họ đến xưởng chè của mình để làm công, vừa làm, vừa trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm, vừa động viên để tạo tự tin cho họ. Đến nay, xưởng trà của chị đã thu hút được nhiều chị em trong thôn tham gia cung cấp nguyên liệu và làm nhân công thu hái chè.

Dự án AWEEV cung cấp vốn sinh kế cho phụ nữ dân tộc Tày ở Hà Giang để phát triển đàn vịt nuôi

Dự án AWEEV cung cấp vốn sinh kế cho phụ nữ dân tộc Tày ở Hà Giang để phát triển đàn vịt nuôi

Phụ nữ dân tộc Tày sử dụng máy ấp trứng vịt để tích cực tăng đàn, tăng thu nhập

 

Mô hình sinh kế do cộng đồng làm chủ hỗ trợ phụ nữ dân tộc thiểu số cải thiện thu nhập đã được thực hiện tại xã Yên Thành (tỉnh Hà Giang) có hiệu quả. Nhóm tiết kiệm tự quản thôn Yên Lập, xã Yên Thành được thành lập vào tháng 6/2023 với 18 thành viên là phụ nữ dân tộc Tày trong thôn. Vào ngày 7 hàng tháng, các cuộc họp tiết kiệm và cho vay định kỳ được tổ chức. Dự án AWEEV cung cấp vốn sinh kế cho nhóm 30 triệu đồng, nhờ đó, đợt đầu tiên 10 hộ được vay vốn quay vòng không lãi suất trong sáu tháng để phát triển đàn vịt nuôi.

Với điều kiện tự nhiên phù hợp với nhiều ao hồ, chăn nuôi vịt là một trong những lựa chọn tốt nhất để những người nông dân này phát triển sinh kế thích ứng với điều kiện khí hậu.

Phụ nữ dân tộc Tày sử dụng máy ấp trứng để gia tăng đàn vịt

Phụ nữ dân tộc Tày sử dụng máy ấp trứng để gia tăng đàn vịt

Chị Hoàng Thị Liên, một thành viên trong nhóm cho biết, chị nuôi vịt để lấy thịt và trứng. Để bán hàng, không cần phải mang đi xa, Chị chỉ cần đăng lên nhóm zalo của chi Hội phụ nữ thôn là bán được ngay. Giá vịt bầu cổ ngắn hiện ở mức 100.000 đồng/kg, mỗi con vịt bán được trung bình 250.000 đồng, mang lại thu nhập tốt và ổn định, có đồng ra, đồng vào để chăm lo cho gia đình.

Nuôi vịt lấy trừng và thịt mang lại thu nhập khá tốt cho những người phụ nữ dân tộc thiểu số

Nuôi vịt lấy trừng và thịt mang lại thu nhập khá tốt cho những người phụ nữ dân tộc thiểu số

Đến cuối tháng 10/2023, có 10 hộ nuôi vịt đầu tròn và phát triển tốt. Một số thành viên trong nhóm bán vịt để lấy thịt và trứng. Giá hiện nay là 100.000 đồng/kg mang lại thu nhập khá tốt cho người nông dân.

Các thành viên trong nhóm cho biết sẽ tiếp tục mở rộng chăn nuôi, sử dụng máy ấp trứng để tích cực tăng đàn nhằm tạo thu nhập cho các thành viên và giá trị cho thương hiệu vịt Yên Lập.

Phụ nữ dân tộc thiểu số canh tác rau ôn đới để thoát nghèo 

Hay như trường hợp các chị em phụ nữ người dân tộc thiểu số ở xã Lùng Phình (Bắc Hà, Lào Cai) chuyển sang canh tác rau ôn đới cũng đã góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người dân nơi đây.

Xã Lùng Phình (Bắc Hà, Lào Cai), có khí hậu đặc trưng ôn đới, mùa đông lạnh giá, trước đây bà con vẫn bỏ hoang đất trong mùa đông. Mấy năm gần đây, Lùng Phình trở thành xã đi đầu khu vực về gieo trồng cây rau màu, cây dược liệu vụ đông. Do hợp khí hậu, các loại cây rau màu ôn đới phát triển rất tốt. Tính đến vụ đông xuân năm 2023 – 2024, sản lượng cây rau màu của xã Lùng Phình đã tăng thêm đáng kể. Bên cạnh trồng cây rau màu, bà con cũng trồng được cây dược liệu đương quy.

Canh tác rau ôn đới đã góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người dân đồng bào dân tộc thiểu số

Canh tác rau ôn đới đã góp phần tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người dân đồng bào dân tộc thiểu số

Bà Giàng Sín Xuyển – Chủ tịch Hội LHPN xã Lùng Phình, cho biết: “Trước đây, phụ nữ ở Lùng Phình không có thói quen sản xuất cây vụ đông, nếu có làm thì cũng chỉ để phục vụ nhu cầu cho gia đình. Nhưng giờ đây, chị em đã thay đổi nếp nghĩ, cách làm khi nhận thức hiệu quả của việc sản xuất rau ôn đới, tập trung nguồn lực để phát triển thành sản phẩm hàng hóa đem lại nguồn thu nhập chính cho gia đình. Cho đến nay, phụ nữ cả 6 thôn trên toàn xã đều canh tác gieo trồng rau vụ đông”.

Ngoài việc tham gia sản xuất rau tại nhà, nhiều chị em phụ nữ trong xã còn tham gia làm việc tại Nông trại Kale Farm ở thôn Pả Chư Tỷ (xã Lùng Phình). Nông trại có diện tích hơn 30.000m2 đất canh tác, chia thành các khu như: Xây dựng khu nhà sàn để trưng bày sản phẩm; khu vực cho khách đến thăm quan trải nghiệm hái rau, củ, quả và nấu ăn ngay tại nông trại; khu trồng các loại cây ăn quả như lê, mận…; khu trồng các loại rau cải cầu vồng, dâu tây, cà chua.

Hàng năm, cơ sở này không những thu hút nhiều nữ lao động là người dân tộc thiểu số, tạo ra việc làm và thu nhập cho họ, mà điều quan trọng hơn là giúp họ nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm trong việc trồng và chăm sóc cây hoa màu, từ đó áp dụng và sản xuất tại nhà, góp phần nâng cao chất lượng và năng suất của sản phẩm cho địa phương.

Phát triển du lịch cộng đồng giúp phụ nữ dân tộc thiếu số nâng cao quyền năng kinh tế

Phát triển du lịch cộng đồng giúp phụ nữ dân tộc thiếu số nâng cao quyền năng kinh tế

Phụ nữ Tày chuyển đổi làm nông nghiệp thuần túy sang phát triển du lịch homestay

Trước đây, phụ nữ xã Nghĩa Đô (Lào Cai) làm nông nghiệp thuần túy, thu nhập chủ yếu lệ thuộc vào mùa vụ, không ổn định. Từ khi phát triển du lịch cộng đồng, mỗi tháng các hộ gia đình làm homestay có thêm nguồn thu nhập bình quân trên 10 triệu/tháng.  

Bà Lương Thị Quyên (thôn Bản Hón, xã Nghĩa Đô, Lào Cai) – chủ một cơ sở homestay cho biết, trước kia bà chỉ biết làm nông nghiệp, nhưng hơn chục năm gần đây, bà và gia đình đã chuyển sang làm dịch vụ homestay.

Homestay tại xã Nghĩa Đô (Lào Cai) thu hút cả khách du lịch trong nước và quốc tế

Homestay tại xã Nghĩa Đô (Lào Cai) thu hút cả khách du lịch trong nước và quốc tế

Bà Quyên chia sẻ: “Mới đầu làm du lịch tôi rất lạ lẫm nhưng vừa làm vừa học hỏi  kinh nghiệm, từ việc đón khách, nấu ăn, dọn phòng, hướng dẫn viên… Chúng tôi khai thác các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc mình, những nét đặc trưng trong phong tục tập quán, lao động sản xuất để ứng dụng vào phát triển thành hệ sản phẩm du lịch độc đáo mang đậm nét riêng của địa phương. Đặc biệt, chị em chúng tôi nhận thấy du khách thích những nét văn hóa truyền thống của dân tộc địa phương như: múa quạt, hát then, các trò chơi dân gian truyền thống (kéo co, ném còn…) nên chủ động tổ chức các hoạt động này cho du khách tham gian. Các món ăn truyền thống của dân tộc cũng được làm để hấp dẫn khách du lịch trải nghiệm”.

Món ăn truyền thống của dân tộc được chị em chế biến để phục vụ du khách

Món ăn truyền thống của dân tộc được chị em chế biến để phục vụ du khách

Phụ nữ tại xã Nghĩa Đô cũng thành thạo trong việc dụng sử dụng mạng xã hội, mở rộng tương tác với thị trường, đặc biệt là quảng bá giới thiệu hình ảnh quê hương và bản sắc văn hóa để thu hút khách du lịch.

Hiện, tại xã Nghĩa Đô đã có gần 20 hộ gia đình làm mô hình du lịch homestay, tạo ra việc làm và thu nhập khá ổn định cho phụ nữ nơi đây.

Đây là 4 trường hợp trong số nhiều mô hình hỗ trợ sinh kế cho phụ nữ dân tộc thiểu số được triển khai thành công trong thời gian gần đây. Ông Nguyễn Đức Thành – Quản lý các dự án phát triển của tổ chức CARE quốc tế tại Việt Nam, cho biết, giai đoạn 2021 – 2025, dự án hướng đến hỗ trợ 2.635 phụ nữ và nam giới dân tộc thiểu số ở sáu xã của tỉnh Hà Giang và ba xã của tỉnh Lai Châu. Hiện nay, các hoạt động của dự án đang được người dân đón nhận và phát triển tốt, góp phần cải thiện thu nhập, kinh tế hộ gia đình của phụ nữ dân tộc thiểu số.

Nguồn: https://giadinhmoi.vn/nang-cao-quyen-nang-kinh-te-cua-phu-nu-nho-cac-mo-hinh-ho-tro-sinh-ke-cho-phu-nu-dan-toc-thieu-so-d88712.html